Thứ Năm, 29 tháng 6, 2017

Kỷ niệm với những bản tình ca

Dương Quốc Việt

Đã đăng trong Tạp chí văn hóa Nghệ AnKỷ niệm với những bản tình ca

Đầy đủ hơnKỶ NIỆM VỚI NHỮNG BÀI CA TÔI YÊU 

Kỷ niệm với NHỮNG BÀI CA TÔI YÊU – Tạp bút: Dương Quốc Việt

Tưởng nhớ hương hồn một người anh của tôi!

Ngày đó vào năm 1964, một anh trai họ của tôi (ông nội tôi và ông nội của anh là hai anh em ruột), là một thợ đường sắt, không biết vì lý do gì anh rời bỏ cơ quan về nhà. Những buổi tối mùa hè, cùng với cây guitar, anh vừa đệm vừa hát. Nhà anh ở cạnh nhà tôi, nên tôi đều nghe thấy cả. Thế rồi đến lúc, tôi mê những ca khúc qua giọng hát của anh. Và mỗi lần anh đàn hát, tôi lại sang nghe. Chắc thấy tôi thích tiếng đàn và giọng hát của anh, nên anh đã dạy tôi học nhạc và đánh đàn. Quả thật lúc ấy tôi mê lắm và chỉ mong có ngày tôi đàn hát được như anh.

Thao tác đầu tiên mà anh bắt tôi tập, là kẻ khuông nhạc. “Khuông nhạc gồm có 5 dòng, kẻ đếm từ dưới lên trên”-anh nói và yêu cầu tôi làm như vậy đến khi thành thạo. Lúc đầu tôi cãi anh, vì như thế thì kẻ dòng sau mà không nhìn thấy dòng trước, nhưng anh bảo học bài bản thì phải như vậy. Rồi để phục vụ cho học đàn, thì anh yêu cầu tôi, tay nào chân ấy trước hết đấm xuống gối phải đồng thời với xoa vào gối trái nhịp nhàng, rồi anh hô chuyển thì phải lập tức đổi thao tác thành: xoa vào gối phải cùng lúc là đấm vào gối trái, tập cho đến khi nào thành thục.

Nhưng rồi bao sự kiện ập đến, rồi anh trở lại cơ quan, nên việc anh dạy tôi đành bỏ dở. Tuy vậy nhiều bài tôi đã nghe và hát theo tiếng đàn, tiếng hát của anh, nên cũng đã khá ngấm, nhưng chỉ hát thầm cho mình mình nghe. Có lẽ bản tình ca đầu tiên đi vào ký ức tuổi thơ của tôi khi đó, chính là bản tình ca Đôi bờ. Hình như bản tình ca này dễ dàng đi vào tuổi thơ của tôi không chỉ vì tôi thấy hay, mà còn vì lời bình của anh, và cả những điều anh kể về nguyên tác và hình ảnh ẩn dụ của nó.

Đêm dài qua, dưới mưa rơi, em mong chờ anh tới
Cây cỏ hoa như nói nên lời em hạnh phúc nhất đời
Lòng em riêng biết có yêu anh, giữa tình đôi lứa ta
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa…

Trên dòng sông, sóng đôi nhau, thiên nga đùa trên sóng
Bên bờ sông vai sánh vai nhau, đôi đôi bước theo dòng
Mình em riêng đứng ngóng trông anh, với tình yêu thiết tha
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa…

Đêm dần qua ánh ban mai đang lan tràn dâng tới
Trên bờ sông soi bóng em dài, xa xa phía chân trời
Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa…

Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha
Một dòng sông sóng nước long lanh, đôi bờ đâu cách xa…

(Có thể nghe qua  Đôi bờ-Lê Dung   hay  Đôi bờ- nhạc Nga).

Nhạc điệu của “Đôi bờ” nhẹ nhàng, sâu lắng, phản ảnh nội tâm của một người thiếu nữ Nga. Tuy nhiên nó lại ẩn dụ về một nỗi tuyệt vọng!? Đôi bờ là một bản tình ca Nga, lời của nhà thơ Grigory Mikhailovich Pozhenyan (1922-2005), phần nhạc do Andrey Yakovlevich Eshpai (1925-2015) viết cho phim “Khát” vào năm 1960 với tên gọi nguyên thủy: Em và anh-đôi bờ.

Theo nguyên tác, thì “Đôi bờ” kể về một mối tình vô vọng của một cô gái Nga, chung thủy với một người lính hy sinh ngoài mặt trận. Điều đặc biệt là, chính bản thân cô gái này cũng đã biết người yêu mình không còn, nhưng trong sâu thẳm tận đáy lòng, cô lại không muốn tin và vẫn hy vọng, đợi chờ. Hình ảnh những con thiên nga và những người bạn gái của cô đều đã có đôi, trong khi đó cô và người yêu, chẳng khác gì hai bờ của một dòng sông, khiến cô càng thêm chạnh lòng. Và dù cô có cố tự an ủi “đôi bờ đâu cách xa“, thì hai bờ cũng chẳng thể nào gặp được nhau.

Cùng với “Đôi bờ”,  còn là một bản dân ca, một bản dân ca của Ucraina, cũng đã đi vào tuổi thơ của tôi, trong bối cảnh đó. Tôi vẫn còn nhớ nguyên cảm xúc và những tưởng tượng của tôi khi nghe anh trình bày bài hát này:

Đồng xanh bát ngát mênh mông Ucraina,
Dòng sông lướt trôi trong xanh êm đềm.
Bạch dương tươi tốt, lá xanh cành vươn bên bờ,
Là nơi cố hương thân yêu mong chờ.

Giặc kia hung ác lấn xâm nơi quê hương,
Đồng xanh mến yêu biến thành chiến trường.
Làng quê yêu dấu tan hoang vì quân hung bạo,
Bạch dương xác xơ lá rụng tiêu điều.

Đồng xanh bát ngát mênh mông Ucraina,
Dòng sông lướt trôi trong xanh êm đềm.
Bạch dương tươi tốt, lá xanh cành vươn bên bờ,
Là nơi cố hương thân yêu mong chờ.

Luyện trong gian khó, chúng ta bao thanh niên
Vượt qua khó khăn gian nguy không sờn.
Dù ta có chết quyết không chịu thân nô lệ,
Tự do tiến lên vinh quang muôn đời.

Đồng xanh bát ngát mênh mông Ucraina,
Dòng sông lướt trôi trong xanh êm đềm.
Bạch dương tươi tốt, lá xanh cành vươn bên bờ,
Là nơi cố hương thân yêu mong chờ.

Bạch dương tươi tốt, lá xanh cành vươn bên bờ,
Là nơi cố hương thân yêu mong chờ.

(Có thể nghe qua  Quê hương-Dânca Ucraina    và    Thành Đức Hạnh – Quê hương Ucraina,  hay  Ca khúc “Quê hương Ucraina” ).

Rồi anh còn kể cho tôi nghe về một vị anh hùng nào đó của đất nước Ucraina xa xưa, bị sa vào tay kẻ thù, tay chân bị xiềng xích, nhưng đã không chịu khuất phục đầu hàng, và đã cất cao lời ca “Dù ta có chết quyết không làm thân trâu ngựa”, trước khi bị hành hình. Anh bảo đó là sự tích ra đời bản dân ca này! Những làn điệu du dương, trầm bổng, phảng phất nỗi buồn, gắn với hình ảnh người anh hùng trong câu chuyện anh kể, là những âm hưởng, hình ảnh đã ngấm vào tuổi thơ của tôi.

Nói đúng ra, lời của bản dân ca ngày ấy anh em tôi hát, không hoàn toàn giống như bản chép trên. Lời của nó đúng là lời của dân ca, chứ không phải là những ngôn từ cập nhật như “Luyện trong gian khó, chúng ta bao thanh niên“. Có phải do dịch chăng? E  rằng lời trong bản chép trên, đã được cải biên, cho phù hợp với thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II thì phải !?

Cũng cần nhìn nhận thêm rằng, ngày ấy cũng như mãi sau này, những ấn phẩm văn học, âm nhạc… thịnh hành, dường như là những gói “mỳ ăn liền”, chỉ để nhằm cổ xúy trực tiếp cho khí thế chiến tranh, sản xuất, chiến đấu, hay tụng ca…  Nói thế để tôi tự bằng lòng, rằng tôi đã may mắn như thế nào, khi được anh trai họ của mình, cho ăn một món ăn nhiều dưỡng chất, có lẽ lại vào đúng lúc cơ thể đang cần. Tuy nhiên có thể có người bảo, cái đó là điều chưa hẳn, nếu nhìn qua lăng kính của nhiều con người thành đạt trong thời đại này.

Một điều lạ, là có khá nhiều bản tình ca tôi biết trong hoàn cảnh đó và một vài hoàn cảnh khác sau đó, cùng với mấy người anh em trong đại gia đình của ông bà nội, âm hưởng vẫn còn mồn một trong ký ức của tôi, thậm chí tôi vẫn thầm ngân nga mỗi khi làm việc trong tĩnh mịch một mình, hay gặp những hoàn cảnh gợi mở… gây xúc động trong tôi (chẳng hạn những câu, những đoạn như: “Nay ta ra đi nơi xa vời, vì ta không quen ở nơi này“; “Chim ơi nàng ở nơi nao, biết bao giờ ta lại gặp nhau“; “Hoàng hôn buông quá nhanh, bóng đêm u buồn vây quanh“; “Phải chăng em sống nơi đâu, đường đi chưa quen lối về, vì ta chung câu ước thề, lòng anh buồn tái tê” hay “Dù cho gió mưa buồn thương, dù đời vấn vương sầu thương, thì anh vẫn không quên được người em“…), nhưng sau này và cả đến bây giờ, tôi không sao tìm lại được nữa. Tôi phỏng đoán có thể là nhạc phim nước ngoài thời đó !?

Còn những bài như hai bài ở trên, mặc dù đã nghe cả những danh ca trong và ngoài nước biểu diễn, nhưng tôi vẫn không thể có được cái cảm xúc năm xưa khi nghe anh hát. Những thần thái đầy cảm xúc, giọng hát quyện với tiếng đàn, với cái nhìn như bao bọc lấy tôi, anh cất lên “Mình anh riêng biết có yêu em, với niềm tin thiết tha” khi hát “Đôi bờ”, hay khi anh và tôi cùng hát câu “Dù ta có chết quyết không làm thân trâu ngựa” trong bài dân ca Ucraina…, đều là những cảnh tượng không bao giờ phai trong tôi. Quả thật với tôi, thì không ai có thể biểu diễn hay hơn anh, với miệng hát tay đệm guitar, dưới những đêm trăng sáng nơi quê nhà năm ấy!

Có lẽ anh là một trong những người đã góp phần đưa vào ký ức tuổi thơ của tôi những bản tình ca, theo tôi đi suốt cuộc đời! Không biết có phải những món ăn đầu đời ấy đã tạo nên “khẩu vị” của tôi hay không? Chỉ biết rằng, mặc dù những năm tháng của tuổi trẻ sau này, trải qua nhiều cung bậc của cuộc sống, tôi đã nghe đã thuộc nhiều bản tình ca khác (thậm chí tôi tự cho là sẽ hát được chúng với cảm xúc nhất, mặc dù tôi chưa hát cho ai nghe bao giờ cả) với nhiều sắc thái cảm xúc, nhưng tôi vẫn cảm thấy thiếu hụt những trạng thái cảm xúc gì đó, trong “bộ sưu tập” tình ca của mình, mà không sao gọi tên ra được.

Thế rồi vào một buổi sáng cuối thu, khi đang ngủ trở lại, sau một đêm thức quá đà do mải mê công việc, trong mơ màng, tiếng du dương xa xa đâu đó như lướt nhẹ qua tai tôi:“Trên ghế đá kia phai màu/ Người yêu dấu không thấy đâu”. Tỉnh dậy trong cái tiết se lạnh của thu tàn, khiến tôi càng cảm thấu thêm cái tê tái từ tiếng vọng kia mang đến. Và tôi nhận ra nó chính là cái mà trong “bộ sưu tập” của tôi còn đang thiếu vắng. Tôi đã gặp “Người yêu dấu ơi” như thế đó. Cho đến nay, Koibito Yo (1980) là một trong những bản tình ca mà tôi yêu thích nhất! Và tôi ưa bản đã được phóng tác và biểu diễn bởi Ngọc Tân (1948-2004) hơn cả, không biết có phải vì nó đã đến với tôi từ tiếng vọng do người nghệ sĩ tài hoa này tái tạo ra không !?

 Koibito Yo – Người yêu dấu ơi – Ngọc Tân 

Chiều hoàng hôn rơi lá
Bao lá cây thu vàng
Trời mùa đông từng cơn
Gió tuyết trắng lạnh về
Ôi tháng năm với những thời gian buồn
Trôi đi mãi và trên ghế đá kia phai màu
Người yêu dấu không thấy đâu
Người yêu dấu ơi, người về với tôi
Với bao thời gian với bao kỷ niệm
Ngồi ngắm sao rơi trời đêm
Bầu trời lóe sáng chói đêm đen
Và từng ký ức mãi không quên
Giấc mơ tình yêu vô tình
Chợt tắt trong đêm đông về.

Koibito Yo kể về câu chuyện tình buồn của một thiếu nữ đang ngồi thu mình trên ghế đá công viên, dưới cơn mưa tuyết, chờ người yêu trở lại. Mặc dù người yêu của cô đã nói lời giã từ, nhưng người thiếu nữ ấy vẫn hy vọng lời giã từ kia chỉ là lời nói đùa, và người yêu cô sẽ trở lại với những nụ cười như ngày nào. Koibito Yo là một trong số rất ít những tình ca do nữ ca sỹ nổi tiếng người Nhật Mayumi Itsuwa tự sáng tác, và biểu diễn rất thành công (có thể nghe qua Itsuwa Mayumi – Koibito yo).

Bi kịch tình yêu, có lẽ luôn là nỗi đau muôn thuở của con người!? Nhưng kể lại một câu chuyện tình đơn phương đã nêu ở trên như “Người yêu dấu ơi” thì quả là đặc sắc! Tôi cảm như phóng tác của Ngọc Tân đã lột tả được cái thần thái của câu chuyện mà Itsuwa Mayumi  đã kể bằng âm nhạc thông qua Koibito Yo.

Suy ngẫm về những bản tình ca tôi yêu, trong khi viết lại những kỷ niệm này, tôi mới chợt nhận ra rằng: ngoài biết bao cảnh đợi chờ đằng đẵng “hóa đá”, mang tính kinh điển trong thi ca của nhiều dân tộc như “Khúc hát nàng Solveig” huyền thoại của đất nước Na Uy (gắn với những kỷ niệm thời sinh viên của tôi), thì “Đôi bờ” và “Người yêu dấu ơi” là một cặp khác biệt. Rằng đó là một cặp tương phản, phản ánh hai kiểu tuyệt vọng của hai thiếu nữ Nga và Nhật trong cảnh đợi chờ. Nếu như ở “Đôi bờ” cái tuyệt vọng là cái cảnh “tình còn người mất”, thì ở “Người yêu dấu ơi” lại là cái cảnh “tình mất người còn”.

Anh Thơ – Khúc hát nàng Solveig 

Nhạc: Edvard Hagerup Grieg ( 1843 -1907). Lời: Henrik Johan Ibsen (1828-1906). 

Mùa đông dù trôi qua,
nhưng bóng dáng xuân tươi phai dần
và lá trút không vương trên cành.

Dù cho bao nhiêu năm tháng
mang ánh nắng đông qua xuân về
và nỗi nhớ anh đi chưa về.

Ngàn trùng dù có cách xa
em vẫn chờ dù đến bao giờ.
Tình em không bao giờ phai.

Tình này em dâng hiến anh,
có bao giờ nhạt phai trong lòng.
Tình em yêu anh trọn đời…

A…a…a…

Cầu mong ở nơi xa,
anh vẫn sống yên vui thanh bình
nhờ những giấc mơ em bên mình.

Ở nơi xa xăm ấy
ôm chiếc bóng cô đơn trong lòng
và nỗi nhớ mênh mông vô cùng.

Trọn đời em thương nhớ anh,
em vẫn chờ dù đến bao giờ.
Tình em không bao giờ phai.

Tình này em dâng hiến anh,
sẽ giữ trọn hình anh trong lòng.
Thủy chung yêu anh trọn đời…

A…a…a…

Người ta còn cho rằng, “Khúc hát nàng Solveig” được lấy cảm hứng trực tiếp từ câu chuyện tình chung thủy giữa nàng Penelope với người anh hùng Odysseus trong cuộc chiến thành Troy, được kể trong hai sử thi Iliad và Odyssey nổi tiếng của Homer (850-TCN-Hy Lạp). Điều này không rõ đúng sai đến đâu, nhưng thật có lý khi nói rằng: nó chịu ảnh hưởng của câu chuyện tình này, như thực tế Iliad đã ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nền thi ca của nhân loại trong suốt hàng nghìn năm qua.

Những đợi chờ có thể trong niềm tin, trong  hy vọng  hay trong  tuyệt vọng, thậm chí còn có thể mang đến bi kịch nữa… Nhưng nó đều hé lộ một điểm chung gì đó rất kỳ lạ, rất đáng yêu, rất đỗi tạo hóa, thậm chí còn rất vĩ đại, thuộc về một phần nửa của thế giới, mà nửa còn lại không dễ gì thấu cảm được. Đến đây, tôi cảm thấy như mình vừa có một khám phá mới về một nét rất đặc trưng của phái đẹp, cái mà tôi đã từng không hiểu hoặc vô tình. Vì thế rất có thể tôi đã làm tổn thương cho chính những người thương yêu mình. Nghĩ thế mà không khỏi giật mình, xót xa!

Người anh họ-người thầy dạy đàn nhạc đầu đời của tôi, đã mất năm 1997, tôi thương tiếc vô cùng! Tôi ân hận vì đã chưa một lần nói được với anh, rằng anh đã đưa vào ký ức tuổi thơ của tôi những ca khúc tuyệt vời, rằng đó là một trong những vật liệu nền móng, cho cái lọc, cái lá chắn, cái giá đỡ tinh thần…, đã và sẽ trợ giúp tôi trong cuộc đời này! Rằng cái điều mà tôi đã không sớm suy ngẫm để nhận ra, lúc anh còn sống! Mong anh thông cảm và tha thứ cho tôi! Tôi cảm thấy mình thật có lỗi, và dẫu có quá muộn mằn, thì tôi vẫn phải ngậm ngùi nói lời cảm tạ với anh!

_______________

Hà Nôi 20/6/2017

Đồng cảm:  CHIỀU NGHE TÌNH CA

Thứ Hai, 19 tháng 6, 2017

Kỷ niệm với “Tiếng gọi quê hương”

Dương Quốc Việt

Đã đăng trong Văn Đàn ViệtKỷ niệm với “Tiếng gọi của quê hương” Dương Quốc Việt (ĐHSP. HàNội)và ĐXXKỷ niệm với “TIẾNG GỌI CỦA QUÊ HƯƠNG” 

Đầy đủ hơnKỶ NIỆM VỚI NHỮNG BÀI CA TÔI YÊU

Kỷ niệm với NHỮNG BÀI CA TÔI YÊU – Tạp bút: Dương Quốc Việt

Dương Quốc Việt: Kỷ niệm với những bài ca tôi yêu

________________________________

Tôi như cảm thấy có lỗi vì đã rời xa “Tiếng gọi của quê hương” quá lâu, và quyết định viết lại kỷ niệm này, để nó mãi thường xuyên ở bên tôi. Hà Nôi 16/6/2017.

Tôi không còn nhớ rõ đã được nghe từ khi nào bản hợp xướng: Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy (viết năm 1958) của nhạc sĩ Tô Hải (sinh năm 1927). Rồi một lần, có lẽ vào khoảng giữa năm 1980, không hiểu sao từ trong một giấc mơ của tôi khi đó, mồn một từ ký ức vọng về âm hưởng Chương III: Tiếng gọi của quê hương (chương mà tôi thích nhất) của hợp xướng gồm 4 chương này:

Chiều chiều dừng chân đỉnh non sườn núi
(Ai đi xa xôi nhưng lòng vẫn vui)
Ngó trông xa xa tận phía chân trời
(Có người thương yêu ngày đêm ngóng trông)
Quê hương yêu dấu bao người chờ trông
(Nơi quê hương xa xôi ai chờ mong)
Những đêm trăng rằm tiếng ca vang lừng cùng người xa vắng 
Đập lúa dưới trăng

Giờ này ở nơi xa xôi biên giới
Hát vang lời ca thiết tha yêu đời
Sông kia núi đó như giục lòng ta
Khó khăn mau vượt có chi ngăn được tình yêu quê hương

Ngàn đèo ngàn non ngàn sông ngàn suối
(Ai đi xa xôi nhưng lòng vẫn vui)
Bước đi muôn nơi càng yêu quê nhà
(Có người thương yêu ngày đêm ngóng trông)
Ai buông tay hái ngó nhìn trời xa
(Nơi quê hương xa xôi ai chờ mong)
Nón nghiêng nghiêng chào thắt lưng hoa đào vờn bay trong nắng
Chiều xuống bên ta

Giờ này ở nơi xa xôi biên giới
Hát vang lời ca thiết tha yêu đời
Sông kia núi đó như giục lòng ta
Giữ yên biên thùy cho lòng tổ quốc Việt Nam sáng  ngời. 

Sáng hôm sau, tôi lõm bõm hát câu được câu chăng “Tiếng gọi của quê hương” và nói với một anh bạn đồng nghiệp: anh có thể thuộc và hát đầy đủ bài này không? Không nói năng gì, anh hát! Trong không gian tĩnh lặng chỉ có tiếng hát mà tôi cảm như chất giọng “nhà thờ” của anh, chúng tôi nhìn nhau trong cảm xúc đến vô cùng.

Kể từ đó tôi dành cho anh những tình cảm đặc biệt. Đó là anh Trần Quốc Thư một giảng viên môn kỹ thuật nông nghiệp, con trai của một gia đình trí thức, bố anh là một bác sĩ, nhà ở phố Bát Đàn-Hà Nội, anh vẫn ở lại đó (Trường đại học Tây Bắc) cho đến hôm nay. Tôi đã đến thăm gia đình riêng của anh trên đó, nhân dịp thỉnh giảng cho lớp cao học toán tại trường anh vào năm 2009, và từ đó tôi luôn cầu mong cho anh chống đỡ được bệnh tật!

Năm tháng trôi qua, biết bao biến động cùng với những thăng trầm, những tình cảm vui buồn bao phủ, mặc dù vẫn thường xuyên tìm lại, nghe lại được những tác phẩm mà tôi ưa thích, trong đó có nhiều tác phẩm mà người ta rất ít nhắc đến, nhưng tôi đã quên bẵng “Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy”.

Thế rồi thật bất ngờ, đêm qua (đêm 15/6/2017) cái giấc mơ năm xưa một lần nữa trở lại, âm hưởng của “Tiếng gọi của quê hương” lại vọng về. Và ngay lập tức tôi đã tìm thấy nó, được cảm nhận về nó qua trình diễn của những dàn hợp xướng với những kích cỡ khác nhau, thậm chí còn có cả những dàn hợp xướng khổng lồ, chẳng hạn:

Tiếng gọi của quê hương (Tô Hải) – Hợp xướng Việt Pháp

Tiếng gọi của quê hương (Tô Hải) trích Chương 3 

Tiếng hát biên thùy (Chương 3) V.A Lyric 

Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy (Chương 3) – Hợp ca quê hương -Hugues Reiner

Tiếng hát biên thùy, Chương 3

Nghe lại một mình “Tiếng gọi của quê hương”,  tôi như chết lặng với biết bao hoài niệm, liên tưởng xa xôi, như xua đi những “âm thanh” nhức nhối đang hiện hữu ở xứ sở này. Cùng với đó là những xót xa, nhất là khi biết thêm về số phận đưa đẩy, long đong của bản hợp xướng cùng với tác giả của nó. Có lẽ đây là bản hợp xướng mà tôi nghe không bao giờ thấy cũ.

Thiêng liêng-bổn phận-day dứt-bi tráng-da diết-dâng trào, pha chất thánh ca, lai láng bao la, còn có cả đâu đó nhạc điệu như tiếng tơ lòng réo rắt-vọng hồn xứ sở, cất lên từ những đau thương, mất mát, chịu đựng, khao khát cảnh đoàn tụ-yên ấm- thanh bình…, là những gì mà tôi cảm được sau những lần đã nghe “Tiếng gọi của quê hương”. Và sẽ còn những gì gì nữa, những cảm nhận xuất hiện qua những trình diễn khác nhau, những trạng thái và thời điểm khác nhau, nhất là ở dạng không lời, chắc không ai có thể biết trước.

Cũng cần nói thêm rằng những làng quê bắc Việt Nam vào thời điểm tổ khúc này ra đời (1958), tuy hết bóng ngoại xâm, nhưng lại vừa trải qua một kiếp nạn khủng khiếp, mà không sao có thể hàn gắn lại được. Có phải vì thế mà nhạc điệu “Tiếng gọi của quê hương” thiếu vắng những tiếng ca tụng reo vui, như ai đó mong đợi (!) Cũng vì thế mà tôi thêm thấu hiểu, vì sao nó đã từng là đối tượng của những gã đao phủ, trần trụi-sính bạo lực một thời.

Tôi như cảm thấy có lỗi vì đã rời xa “Tiếng gọi của quê hương” quá lâu, và quyết định viết lại kỷ niệm này, để  nó mãi thường xuyên ở bên tôi. Tôi hằng mong cho “Tiếng gọi của quê hương” sẽ đi vào tâm thức của triệu triệu người, và được trường tồn theo thời gian. Và dù bất luận như thế nào thì một ngàn lần, tôi cảm phục, mến yêu và biết ơn tác giả, đã để lại cho đời một bản hợp xướng như thế.

________

Hà Nôi 16/6/2017

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2017

VÔ THẦN VÀ CÁI ÁC

Dương Quốc Việt
Đã đăng trong Tia sáng: Ánh sáng của đức tin  và Văn hoá Nghệ An: Vô thần và cái ác
Chia sẻ: Ánh sáng của đức tin | Giáo phận Hà Tĩnh 
May thay, niềm tin vào sự tồn tại thần linh của con người, lại dường như là sự ký gửi của tạo hóa vào mỗi sinh linh. Cũng có người bảo đó là ánh sáng tâm hồn đến từ tiềm thức sâu thẳm của nhân loại. Vì thế bất kể những kẻ “bất kham” nỗ lực thế nào, nhằm tẩy chay hay nhạo báng đức tin hữu thần, đều là vô nghĩa đối với đa phần nhân loại.

Truyền thuyết kể, trong một lần diễn thuyết trước  đám đông công chúng, một học giả đã thuyết phục thính giả rằng,Thượng Đế tuyệt đối không thể tồn tại. Thậm chí ông ta còn ngửa mặt lên trời nói to thách thức: Thượng Đế, nếu ông tồn tại, hãy xuống đây và giết chết tôi giữa đám đông này. Có vậy chúng tôi mới tin rằng ông tồn tại! Tất nhiên, chẳng có Thượng Đế nào đi xuống để giết ông ta cả. Được thể, ông ta nhìn quanh rồi kết luận, thấy chưa-làm gì có Thượng Đế!

Trước vẻ dương dương tự đắc của vị học giả, một người phụ nữ quàng khăn trên đầu đứng dậy mà rằng:  thưa ông, lý thuyết của ông rất sâu sắc và ông quả là một học giả đọc rộng biết nhiều. So với ông, tôi chỉ là một phụ nữ quê mùa. Tôi không đủ khả năng bác lại lý thuyết của ông. Tuy nhiên, tôi mong muốn ông trả lời giúp câu hỏi của tôi. Tôi đã thờ Đức Chúa trong nhiều năm. Tôi cảm thấy an lành trong tâmkhi tôi nghĩ rằng Chúa là Đấng cứu rỗi chúng ta. Tôi thích đọc Kinh Thánh, và càng đọctôi càng cảm thấy an lành. Sự huy hoàng của Chúa sung mãn trái tim tôi. Bởi vì khi tin vào Chúa, tôi có được niềm vui lớn nhất trong đời. Tôi muốn hỏi ông câu hỏi sau đây. Nếu sau khi chết, tôi phát hiện ra rằng-Chúa không hề tồn tại, hay Chúa không phải con của Thượng Đế, và rằng những gì nói trong Kinh Thánh là không đúng, thì tôi đã mất mát điều gì-nếu tôi tin vào Chúa trong suốt cuộc đời? 

Vị học giả cổ xúy cho thuyết vô thần ngẫm nghĩ về câu hỏi này một lúc, rồi lắp bắp: tôi không nghĩ bà mất mát điều gì. Cám ơn ông đã cho tôi câu trả lời hay-người phụ nữ nói. Nhưng tôi còn một câu hỏi khác. Nếu sau khi chết, ông phát hiện Chúa đúng là tồn tại, những gì viết trong Kinh Thánh là tuyệt đối đúng, Chúa là con của Thượng Đế, thiên đường và địa ngục là có thật, thì xin hỏi ông, ông đã đánh mất điều gì? Vị học giả im lặng hồi lâukhông biết trả lời ra sao trước câu hỏi thứ hai này.

Thoạt nghe thì câu chuyện vừa kể trên chỉ là chuyện người ta có tin vào thần hay không, đơn giản chỉ là biểu hiện của thế giới quan khác nhau. Và thật may mắn cho vị học giả kia, ông không bị trả lời một câu hỏi quan trọng hơn, hóc búa hơn nhiều. Rằng nếu tin là có Chúa và những gì viết trong Kinh Thánh là tuyệt đối đúng, Chúa đúng là con của Thượng Đế, và tồn tại thiên đường và địa ngục, thì sẽ có lợi hơn hay không?

Nhưng thử hỏi ở một quốc gia nào đó, công dân của họ không tin có một đấng tối cao nào cả?  Ở đóngười ta đinh ninh rằngkhông tồn tại không gian khác, không có luân hồi, không có nhân quả báo ứng… Nhận thức của công chúng giảm xuống đến mức-chỉ thừa nhận những gì đã thấy quá rõ. Đó là một không gian, một đời sống, chỉ có họ với đồng loại đua tranh “khôn sống mống chết”!? Rằng ở đó, con người chỉ còn biết trục lợi bằng mọi giá-bất chấp tất cả, miễn sao bịt mắt được thế gian!?

Nếu quả như vậy, thì đạo đức của xã hội đó sẽ trượt dốc tới mức nguy hiểm. Rằng không thể có một hệ thống pháp luật nào, cũng như lực lượng nào, có đủ khả năng kiểm soát những hành vi tội phạm của các cá nhân, hay tổ chức trong xã hội đó. Phần “con” trong mỗi cá nhân chắc sẽ mặc sức hoành hành (!) Bởi dù muốn hay không muốn, thông thường mỗi một con người theo nghĩa đích thực, luôn cần đến đức tin. Một đức tin lành mạnh (không bàn đến đúng sai), nó dứt khoát sẽ phải định hướng con người về một cuộc sống cao đẹp.

Sống trong một xã hội giả dối, con người không có đức tin, không có sự bồi đắp tinh thần thường xuyên, và không có năng lượng nội tâm, con người quyết không thể có hạnh phúc. Một người sống không có đức tin, cũng như không có “đấng cứu thế” nào với ông ta cả, lúc sức tàn lực kiệt, sẽ lâm vào cảnh tuyệt vọng khốn cùng! Người ta đã từng chứng kiến, những lời ao ước thở dài  đầy ca thán-sẽ tốt biết baonếu “đấng cứu thế” thực sự tồn tại, vào lúc hấp hối của những con người đã từng tin vào thuyết vô thần. Bởi còn gì thê thảm hơn cái cảnh lẻ loi-đơn chiếc:

Mong manh tuyệt vọng bơ vơ
Mảnh hồn trơ trụi dạt về phương nao?

May thay, niềm tin vào sự tồn tại thần linh của con người, lại dường như là sự ký gửi của tạo hóa vào mỗi sinh linh. Cũng có người bảo đó là ánh sáng tâm hồn đến từ tiềm thức sâu thẳm của nhân loại. Vì thế bất kể những kẻ “bất kham” nỗ lực thế nào, nhằm tẩy chay hay nhạo báng đức tin hữu thần, đều là vô nghĩa đối với đa phần nhân loại.

Những “tiểu nhân đắc chí”, những kẻ mông muội vô giáo dục thắng thế, thường không muốn tin vào “nhân quả”, nhưng chắc chắn chúng đều có kết cục chẳng ra gì. Điều này dường như đều đã được kiểm chứng, trong thực tế-đời sống của mọi dân tộc.

Những người tin theo đạo Phật cho rằng, các bất hạnh như nghèo khó, bệnh tật, và tai họa thường được gây ra bởi trường nghiệp lực. Tất nhiên các tôn giáo khác nhau sẽ có nhận thức khác nhau. Nhưng rõ ràng thuyết hữu thần, đã mang lại một khoảng rộng bao la về nhận thức và cảm xúc. Điều này đã được minh chứng, qua những nền văn minh, những thành quả văn hóa của nhiều dân tộc, cũng như những sự nghiệp rực rỡ, những tư tưởng khai sángcủa những thiên tài xuất sắc nhất từ cổ chí kim.

Những người theo chủ nghĩa vô thần, đã từng ca ngợi tinh thần duy vật trong đoạn thơ dưới đây, được phát ra từ miệng của quỷ Mephisto (một kẻ không tin vào những đức tính tốt đẹp của con người, một nhân vật trong tác phẩm Faustcủa  đại thi hào Johann Wolfgang (von) Goethe (1749-1832), một kiệt tác của nhân loại).

Thế giới này ta cứ tàn cứ hủy
Nào biết rằng thế giới khác có hay chăng
Vui sướng đời ta trái đất này mang
Đau khổ đời ta chính mặt trời kia chiếu rọi
.

Thì đúng là miệng lưỡi của bầy quỷ dữ, sẽ chỉ mang đến hủy diệt chết chóc. May thay Goethe chỉ để nó phát ra từ cái miệng lưỡi độc ác của quỷ, chứ nếu không Faust” còn đâu là một kiệt tác (!?)
Trong nhiều thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã tuyệt đối hóa thuyết vô thần trong giáo dục, nơi mà người ta huyễn hoặc tự hào: có ánh sáng khoa học dẫn đường và có chân lý trong tay làm gậy chống. Thậm chí người ta còn khuyến khích, giáo dục, để cười nhạo và chế giễu những ai tin rằng có đấng tối cao, và họ nghĩ rằng những người hữu thần là những kẻ ngu ngốc.
Đặc biệt họ đinh ninh tin theo dự báo rằng, hệ thống tư bản sẽ diệt vong, và thuyết hữu thần, hay tôn giáo, sẽ biến mất. Nhưng dù tin hay không vào tiên đoán này, thì rõ ràng chủ nghĩa tư bản hay các tôn giáo cũng đều chỉ là những thực thể-mà tạo hóa đã ban tặng cho loài người. Vì vậy nó có thể trường tồn hay không trường tồncùng với sự tồn tại của nhân loại. Điều này tùy thuộc vào quy luật vận hành của tạo hóa. 
Tuy nhiên như những gì nhân loại đã và đang trải qua, thì chỉ thấy những cảnh đổ vỡ ê chề, những cảnh man rợ-đói nghèo cơ cực, cái ác hoành hành, con người vô cảm, nghèo nàn về tinh thần, trần trụi trong lương tri…ở những nơi, những thời điểm, mà ở đó người ta ra sức phủ nhận, tiêu diệt, hay báng nhạo những hiện tồn đó. Và đó là những cái mất lớn nhất, cái khó khắc phục nhất, một khi phần hồn” đã hỏng! 

Để kết thúc bài viết, xin được trở về với những quan điểm của những con người xuất sắc của nhân loại-bàn về chủ đề này. Louis Pasteur (1822-1895)-một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử, với những khám phá về vi trùng, tẩy trùng, về tiêm chủng, miễn dịch…, đã đúc rút về một hiện thực trớ trêu rằng: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa”. Bởi vậy, hẳn không có gì đáng ngạc nhiên, khi được nghe Richard Phillips Feynman (1918-1988)-nhà Vật lý lí thuyết nổi tiếng người Mỹ-đoạt giải Nobel tổng kết: “Rất nhiều nhà khoa học quả thực vừa tin tưởng khoa học vừa tin vào Thượng Đế”. Mạnh mẽ hơn, Wernher Magnus Maximilian Freiherr von Braun (1912-1977)-một trong những tên tuổi hàng đầu của công cuộc phát triển kỹ nghệ tên lửa, đã viết: “Sự thần kỳ vô biên của vũ trụ chỉ có thể chứng thực đức tin của chúng ta rằng, chắc chắn có Đấng sáng thế. Tôi phát hiện ra rằng, việc lý giải một nhà khoa học không thừa nhận tính siêu thường của vũ trụ và một nhà thần học phủ nhận sự tiến bộ của khoa học đều khó như nhau”. Còn vị anh hùng cái thế-người dẫn dắt công chúng xuất sắc-có ảnh hưởng to lớn tới lịch sử nhân loại, Napoléon Bonaparte (1769-1821), thì đã nhìn thấu một giá trị rằng: “Tôn giáo là cái giữ cho người nghèo không giết người giàu”. Và phải chăng, hơn tất cả: “Đức tin là con chim cảm nhận được ánh sáng khi bình minh vẫn còn tăm tối”, cái giá trị cao cả-tạo hóa ban tặng cho con người, như Rabindranath Tagore (1861-1941)-một triết gia, nhà thơ, người đoạt giải Nobel đã phát biểu. 
___________________________
Đã đăng trong  Tác Phẩm Mới:  Vô thần và cái ác  và  TNcTHỬ LÍ GIẢI NGUYÊN NHÂN CỦA CÁI ÁC.  Cũng đăng Văn Đàn Việt  Vô thần và cái ác – Bài viết Dương Quốc Việt (.com)  và trang ĐXX:  VÔ THẦN VÀ CÁI ÁC – Tác giả: Dương Quốc Việt (Hà Nội)